VĂN CHẦU THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU TRUYỆN CA.
(Bản văn này nói về Thánh Mẫu Thiên-Y-A-Na được thờ ở Miền Trung).
Nghìn thu nước biếc non xanh
Tục truyền có thánh hiển linh hạ trần
Thánh xưa hai chữ tôn thân
Lọt ra lòng mẹ trước cần tạo con
Thánh xưa ân nghĩa vuông tròn
Trời nam biển bắc tiếng còn như vang
Các lê lần giở quyển vàng
Quốc âm kể lại mấy hàng chép ghi
Cõi Nam có Đức Thiên Y A Na
Dấu thiêng thủa trước truyện kia rành rành
Phẩm Tiên vốn ở Thiên-đình
Đại-An núi Chúa giáng sinh lạ lùng
Giang sơn riêng một Tiều Ông
Ở ăn góc núi vun trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái có thừa
Vì ai ngắt hái trái dưa bỗng còi
Tiều Ông đêm lượm rình coi
Nhởn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây
Người đâu bỗng xuống trốn này
Phẩm dành bậc nhất tác tày ngoài mươi
Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều Ông gần hỏi : chứ người nào đây
Con ai tác hãy thơ ngây
"Nam mô Di Phật" - Con thầy thầy nuôi
Tấm lòng yêu dấu chẳng nguôi
Trẻ qua già cậy lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào
Lòng Tiên phút nhớ động đào ngày xưa
Đình hoa xây đá sớm trưa
Non kia cảnh nọ dây dưa mấy trùng
Tiều Ông ngó thấy chẳng ưng
Nổi cơn la giận tưng bừng một khi
Tiều còn đương nghĩ đương suy
Bỗng đâu nước lụt cội kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc tiên xà
Cho người tiên cưỡi qua ra vời
Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể Bắc gần nơi Yên Thành
Tiếng thơm đồn dậy xung quanh
Xa gần đưa tới phụng nghinh đem về
Trơ như đá nặng như chì
Trăm quân xúm kéo từ từ chẳng lay
Thảy đều ngơ mặt khoanh tay
Ở trong vật ấy chẳng hay có thần
Một mai thái tử nghe tin
Dạo qua xem thử nhân duyên thế nào
Xuống xe liền néo tay vào
Cột kỳ cất nổi cớ sao lạ thường
Người phu thường, bửu phi thường
Duyên kia đã định dễ nhượng cho ai
Rước về đặt chốn các đài
Khi hôm trăng rọi khi mai gió nhuần
Cung xanh tuổi tác đương xuân
Cầu Ô còn đợi mây Ngân bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng dấp giới làn mây dập dờn
Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe
Hương thừa thấp thoáng còn nghe
Đương khi gặp gỡ ai dè sắc không
Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy Tiên Dung ra vào
Mười phần cốt cách thanh cao
May thay gặp bạn động vào Thiên thai
Đã lòng đoái tới cơ đài
Nhân duyên đâu tá giãi bày thử nghe
Bây giờ nước tỏ niềm tê
Rừng xanh ngỏ truyện trước sau
Hòa mừng hòa sợ vào tâu thềm rồng
Trên nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền xét xử cát hung dường nào
Khi nên trời cũng khéo chiều
Tìm ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho làm lễ chọn ngày
Cầu xây Ô Thước duyên vầy phượng loan
Sắt cầm dìu dặt tiếng đàn
Trước sân mừng thấy quế lan sánh bầy
Song song gái quế trai tài
Xuân xanh sớm nở một cây đôi nhành
Dẫu rằng gá nghĩa cung xanh
Quê xưa cảnh cũ ơn tình còn vương
Lạ gì tiên tích dị thường
Xa đường nhơn quả lánh đường phiền hoa
Cội kỳ sẵn có bởi nhà
Đem hai tiên tử biến ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt biết bao
Biển xanh một dãi Cù Lao mấy trùng
Nước non xanh biếc một vùng
Đại An đâu đó xa trông mịt mờ
Cù Huân thoắt đã tời bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi làng làng gốc Đại An
Hỏi Tiều Tiều đã úa tàn bấy lâu
Rừng dưa man mác đâu đâu
Chạnh lòng ân nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương may hãy còn nên
Cảm lòng Tiều Lão cất đền thờ chung
Phương dân buổi ấy người đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa Tiên lại mở lòng thương
Dạy phương sinh lý tìm đường lễ nghi
Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hô trì dành yên
Đoạn rồi Tiên lại về Tiên
Lên non tạc tượng để miền nhân gian
Phút đâu giá hạc xe loan
Giữa ban ngày đã băng ngàn lên mây
Cõi Nam cảm mến đức dày
Mây tuôn nước chảy sầu này khôn nguôi
Từ ngày trâm gãy bình rơi
Khuôn dung vắng hẳn tăm hơi ả Hằng
Nhớ lời tỏ vẻ dưới trăng
Cung thuyền dục đã đê chừng vượt sang
Quân kia nóng nảy bàng hoàng
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kiêng đến tượng Bà
Từ bi cho mấy cũng là khó dung
Nổi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho họ đắm xong một lần
Giữa dòng cột đá khôn vần
Dấu thiêng còn đó uy thần còn đây
Khi đỉnh núi khi trên mây
Khi lên voi cưỡi khi dầy cá bơi
Hòn Cù, Hòn Én dạo chơi
Sấm ran ba tiếng bóng ngời giữa không
Oai linh hiển hách lạ lùng
Gió tiên mây phật cảm thông rất mầu
Phương dân mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga
Giữa xây một tháp thờ Bà
Kế bên hữu dựng một tòa thờ Ông
Hai bên bốn tháp công đồng
Thờ Cô thờ Cậu thờ Ông Mụ Tiều
Giữa dòng bia đá còn nêu
Dấu xưa khoa đẩu khôn điều giải uy
Bia đá mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì dừng
Hai bên bốn tháp lừng lừng
Năm hòn lố nhố như giăng trước tòa
Kìa Hòn Én nọ Hòn Gà
Hòn Lớn, Hòn Bé với là Hòn Bông
Tả biên có mũi cây Sung
Hữu biên có núi mũi Ông chầu vào
Đêm ngày sóng vỗ lao xao
Đàn ve quyến gió thanh tao tứ mùa
Có Viên Kiệu có Phượng Hồ
Có lèn Ngũ Nhạc có đồ Bát Tiên
Thường năm Tứ quý Tam nguyên
Hương thơm đèn rạng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàn quạt rỡ ràng
Kim Đồng Ngọc Nữ hai hàng hầu trong
Này tên này nỏ này cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca
Tôn thần chẳng những người ta
Thượng cần hạ thú cũng là đua nhau
Cọp hùm đâu cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước voi chầu trên non
Nghìn thu di sản vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn dài
Sử sanh chói chói khôn sai
Giúp vua dẹp giặc, ra tài làm mưa
Qua quan này nhớ thuở xưa
Sứ thần Chân Lạp phải đưa mình hầu
Diễn sơn này nhớ thuở dâu
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh
Có khi Đèo Cả hiện hình
Có khi Tầm hới Hiển linh hạ mầu
Khắp trong dân chúng đâu đâu
Giúp người chẳng quản khấu cầu tự nhiên
Thần Kinh phong cảnh thiên nhiên
Gần làng Cát Hải có đền Huệ Nam
Quốc sơ mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa dần
Đền Thiên Chúa, Miếu Thủy Thần
Ngạt ngào hương khói ngàn xuân đến giờ
Hàm long điện tả linh tòa
Cảnh nào in cảnh tiên cư lạ dường
Nhìn ra trước mặt sông Hương
Dựa vào Hòn Chén lại càng thanh tao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ, cù lao tam thần
Núi xanh nước biếc mười phần
Thông reo chim hót họa vần sinh ca
Vực sâu trạnh lớn nỗi ra
Ơ thần linh đó ấy Hà Bá chăng
E khi chầu chực khôn lường
Đem đồ thủy phủ lên mừng cõi tiên
*
* *
Nghìn thu non nước thiên nhiên
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, lưu truyền sử xanh./-
Sưu tầm : Thiện Duyên.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt-Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét