VĂN CHẦU SỰ TÍCH THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU.
Ngàn thu nước biếc non xanh
Dựng cờ nhà thánh hiển linh nhà thần
Xưa nay hai chữ tôn thần
Lọt ra lòng mẹ trước cần đạo con
Thánh xưa ơn nghĩa vuông tròn
Trời Nam bể Bắc tiếng còn như vang
Gác lê (1) lần gió quyển vàng
Quốc văn âm diễn mấy hàng chép ghi
Cõi Nam nhờ Đức Thiên Y
Dấu thiêng thủơ trước truyền bia rành rành
Phẩm tiên vốn ở Thiên-đình
Đại An núi chúa giáng sinh lạ lùng
Giang sơn riêng ruột tiều ông (2)
Ở ăn gốc núi vun trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái có thừa
Vì ai ngứt trái hái hoa không còn (3)
Tiều ông đêm lén rình coi
Hình như bóng nguyệt bời bời áng mây (4)
Người đâu bỗng thấy chốn này (5)
Phẩm đành bậc nhất trực tày ngoài mươi
Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều ông gần hỏi chớ người nào đây
Con ai trạc tuổi thơ ngây
Nam mô Di Phật con thầy thầy nuôi
Tấm lòng yêu dấu chẳng phai (6)
Trẻ già cậy lại lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào (7)
Lòng tiên phút nhớ động bào thuở xưa
Dời hoa xây đá sớm trưa
Non kia cảnh nọ dày sưa mấy tầng
Tiều ông ngó thấy chẳng ưng
Nỗi cơn la dận tưng bừng một khi
Tiên còn đang nghĩ can qua
Bỗng đâu nước lụt cội Kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc thuyền qua
Cho người tiên cỡi đặng qua giữa vời
Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể bắc gần nơi thiên thành
Tiếng thơm dồn dậy xung quanh
Gần xa điệu đến phụng nghinh thỉnh về
Trơ như đá nặng như chì
Gần xa xúm kéo trì trì chẳng lay
Thảy đến ngơ mắt khoanh tay
Nghĩ trong gỗ ấy chẳng hay có thần
Đến tai Thái tử phong vân (8)
Dạo quanh xem thử nguyên nhân thế nào (9)
Xuống xe vừa đỡ gỗ vào
Cội Kỳ bật nổi cớ sao nhẹ dường (10)
Người phi thường bửu phi thường
Trời kia đã định dễ nhường cho ai
Rước về đặt chốn cát đài
Khi hôm trăng dọi khi mai gió dồn
Xuân xanh tuổi tác đương thì (11)
Cầu Ô (12) còn đợi sông Ngân (13) bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng dáp dớn bóng mây chập chờn
Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giật hèo (14)
Hương thừa thấp thoáng còn nghe
Trong khi gặp gỡ ai dè sắc không
Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy trên cung ra vào
Mười phần cốt cách phong bào
Mừng thay gặp bạn động đào thiên thai
Đã lòng đoài đến cát đài
Nhơn duyên đâu tỏ giải bày thử nghe
Bây giờ mới rõ niềm tây
Rừng dưa biển quế vui vầy bấy lâu (15)
Cung xanh (16) rõ chuyện trước sau
Vừa mừng vừa sợ vào tâu thềm rồng
Vừa nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền bói thử cắt trong dường nào
Khi nên trời cũng khéo chìu
Bói ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho sắm lễ chọn ngày
Bắc cầu Ô Thước duyên vầy phụng loan
Sắt cầm réo rắt thiên đình (17)
Trước sân mừng thấy Quế Lan sánh tày
Song song gái sắc trai tài
Xuân xanh chớm nở một cây đôi cành
Dẫu rằng hà nghĩa xuân xanh
Quê xưa cảnh cũ chút tình còn vương
Lạ thay tiên tích như thường (18)
Trong lòng nhân quả lánh đường phiền ba
Cội Kỳ sẵn có ở nhà
Đem hai tiên nữ hóa ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt quản bao
Bể nam một dãy cù lao mấy trùng
Nước non non nước một vùng
Đại An đâu đó xa trông mịt mờ
Cù Huân thoát đã đến bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi làng làng gọi Đại An
Hỏi tiều tiều đã úa tàn bầy lâu
Vườn dưa man mác đâu đây
Tưởng lòng ơn nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương mây hỡi còn nên
Cảm tình tiều lão cất đền thờ chung
Phàm dân buổi ấy đều đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa tiên lại động lòng thương
Dạy cho xanh lý bảo dường lễ nghi
Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hộ trì đặng yên
Đoạn rồi tiên lại về tiên
Lên non tạc tượng để miền dương gian
Phút đâu giá hạc xe loan
Ban ngày giữa buổi băng ngàn lên mây
Cõi nam cảm mến đã dày
Mưa tuôn bể bắc sầu này không nguôi
Từ khi trâm gãy bình rơi
Cung xanh luống tưởng tâm rơi ả Hằng (19)
Nhớ lời thỏ thẻ dưới trăng
Quân chèo giục giã để chừng vượt sông (20)
Quân kia nóng nảy bàng hoàng (21)
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kêu đến tượng bà
Từ bi cho mấy cũng là khó dung
Nỗi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho thuyền nọ chìm trong một giờ
Giữa dòng cốt đã khôn vân
Dấu thiên còn đó oai thần còn đây
Khi đỉnh núi khi chân mây
Khi lên voi cỡi khi thời cá bơi
Núi Cù hòn Yến dạo chơi
Sấm vang ba tiếng bóng người nữa không
Anh linh hiển hách lạ lùng
Gió tiên mưa phật cảm thông rất mầu
Phàm trần mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga
Giữa xây một tháp thờ bà
Kìa bên hữu dựng một tòa thờ ông
Đôi bên bốn tháp đồng đồng
Thờ cô thờ cậu thờ ông mụ tiều
Trước thời bia đá còn niêm
Chữ xưa khéo dấn khôi đền dại suy
Bia kỳ mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì đừng
Trông lên sáu tháp lừng lừng (22)
Năm hòn lố nhố như dăng trước tòa
Kia hòn Én nọ hòn Gà
Hòn lớn hòn bé với là hòn bông
Tả biên có mũi cày sung
Hữu biên có mũi núi ông chầu vào
Ngày đêm sóng vỗ lao xao
Đờn ve quyển gió thanh tao bốn mùa
Có viễn kiều có phụng hồ
Có lầu ngũ nhật (23) có hồ bát tiên (24)
Thường năm tứ quý tam nguyên
Hương thơm đèn sáng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàng quạt rõ ràng
Kim đồng ngọc nữ hai hàng hầu trông
Nào tên nào cỏ nào cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca
Tôn thần cũng chẳng người ta
Thượng cầm hạ thú cũng là đua nhau
Cọp voi đều cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước chim chầu trên non
Ngàn năm linh hiển vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn đời
Sử xanh chói chói ngàn đời
Giúp công dẹp giặc ra tài làm mưa
Bá quan hay nhớ đã lâu (25)
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh
Có khi ngài đã hiển hình
Có khi thăm hỏi hiển linh phép mầu
Khắp trung nam bắc đâu đâu
Việc gì mà đã khẩn cầu cũng nên
Thần kinh phong cảnh thiên nhiên
Về làng Huê Cát có đền Huệ Nam
Quốc sử mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa lần
Đền tam núi chúa thủy cung (26)
Ngát ngào hương khói ngàn thu đền thờ
Hàm Long điện tối linh từ
Cảnh này in cảnh tiên cư lạ thường
Nhìn ra trước mặt sông Hương
Tựa vào Hòn Chén lại càng thanh cao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ cù lao thị thành
Đêm khuya gió mát trăng thanh
Thông reo chim hót dưới ghềnh lễ ca (27)
Vực sâu trạnh lớn nổi ra
Ấy thần Quy đó hay là cá chăng
E khi chầu chực thiên đình (28)
Đem đồ Thủy phủ lên mừng cõi tiên
Vừa năm Đồng Khánh kỷ nguyên
Sắc rồng ban xuống xây đền sửa cung
Rõ thấy Ngọc Trản kỳ phong
Thật là huyền diệu vinh phong muôn đời
Non cao ra thẳng giữa vời
Hình nhu sư tử uống nơi sông Hà
Nhành dương rưới khắp muôn nhà
Mây tuôn làm phụng mưa sa làm rồng
Cứu dân độ thế đủ lòng
Tùy dân hộ quốc để công muôn đời
Ba tầng minh cảnh cao đài
Rõ ràng biển ngọc trăng ngời lang đương
Hoài du đức thấm muôn phương
Thần linh hiển ứng lạ thường đến nay
Thần tiên đức sánh cao dày (29)
Phước tày Đông hải thọ tày Nam sơn.
Chú thích :
(1) Gác lê : chỉ nơi tra cứu, biên soạn sách. (tương truyền sao Thái Ất chống gậy Thanh Lê hiện xuống gác Thiên Lộc, nơi Lưu Hướng thường hiệu đính chỉnh lý sách cổ).
(2) Dị bản : Giang sơn riêng một tiều ông.
(3) Dị bản : Ví ai ngứt trái sưa bông còi.
(4) Dị bản : Nhỡn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây.
(5) Dị bản : Người đâu bỗng xuống chốn này.
(6) Dị bản : Tấm lòng yêu dấu chẳng phai.
(7) Dị bản : Bỗng đâu gặp tiết mưa rào.
(8) Dị bản : Đến tai Thái tử nghe tin.
(9) Dị bản : Dạo quanh xem thử nguyên duyên thế nào.
(10) Dị bản : Cội Kỳ bật nổi cớ sao nhẹ nhàng. (Cội Kỳ : gốc Kỳ Nam).
(11) Dị bản : Xuân xanh tuổi tác đương xuân.
(12) Cầu Ô (còn gọi là Cầu Ô Thước) : Theo thần thoại Trung quốc. Chim Quạ (Ô) và chim Khách (Thước) khuâng đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau vào ngày mùng bảy tháng bảy âm lịch hàng năm (ngày thất tịch).
(13) Sông Ngân (còn gọi là sông Ngân Hà) : dải Ngân Hà với truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ.
(14) Dị bản : Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe.
(15) Dị bản : Rừng dưa biển quế đi về bấy lâu.
(16) Cung xanh : cung của Thái tử.
(17) Dị bản : Sắt cầm dìu dặc tiếng đàn.
(18) Dị bản : Lạ thay tiên vốn khác thường.
(19) Dị bản : Cung xanh luống tưởng tâm hơi Nga Hằng.
(20) Dị bản : Quân thuyền giục giã để chừng vượt sang.
(21) Dị bản : Quân kia nóng nảy vội vàng.
(22) Dị bản : Trông lên sáu tháp rưng rưng.
(23) Dị bản : Có núi Ngũ Nhạc có hồ Bát tiên.
(24) Dị bản : Quá quan này nhớ thuở xưa.
(25) Dị bản : Tiên chúa miếu thủy thần.
(26) Dị bản : Thông reo chim hót hòa vần song ca.
(27) Dị bản : E khi chầu chực không chừng.
(28) Dị bản : Thánh nhân đức sánh cao dày.
Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt-Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét