phat-thich-ca

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

VĂN CHẦU ĐỨC THÁNH TRẦN Ở CÁC CỬA ĐỀN

Hàng năm, cứ đến ngày lễ kỷ niệm Ngài, ở các cửa đền, nhất là trước đây ở đền Kiếp Bạc, thiện nam tín nữ đến chiêm ngưỡng, các nhà cung văn đã đem bài văn dưới này do ông Đạm-Quang Nguyễn-Xuân-Sơn soạn theo bản cũ sửa đổi đúng lịch sử để hát chầu :
     I.- HƯNG-ĐẠO-VƯƠNG HAI LẦN PHÁ QUÂN NGUYÊN.

Đất Việt-Nam giang sơn một cõi,
Trời Đông-A đương hội thanh bình.
Bổng đâu nổi cuộc đao binh,
Quân Nguyên năm vạn cố tình xâm lăng.
Binh ba đạo Liêm, Khâm ứng tiếp,
Tàu mòng xung ngàn chiếc tiến sang.
Bắc, Đông bờ cõi tan hoang,
Thăng-Long thất thủ Trường-An vỡ thành.
Giặc thừa thắng tung hoành ngang dọc,
Thỏa lòng tham bóc lột lương dân.
Dã man, tàn bạo, ô dâm,
Sài-lang giống ấy còn nhân nghĩa nào !
Lòng phẫn uất ào ào lửa bốc,
Nghĩa binh đâu vụt chốc đùng đùng.
Đại-Vương lĩnh ấn Nguyên-nhung,
Cầm quyền Tiết-Chế, uy hùng ai đương.
Đền Vạn-Kiếp quân lương thu thập,
Sông Phú-Lương đóng chật tàu bè.
Hịch truyền thủy, bộ chỉnh tề,
Quyết lòng "Sát Đát" đền nghì non sông.
Lệnh Đại-Vương phản công khắp mặt,
Phục Long-Thành vây bắt Toa-Đô.
Chiến trường lai láng máu thù,
Non sông rửa hận, ngàn thu danh truyền.
Nhưng nọc độc quân Nguyên chưa tiệt,
Rắn còn đầu thoát chết lại sang.
Non sông lại hóa chiến trường,
Bắc, Nam quyết liệt phàm cương phen này.
Giặc ỷ mạnh tràn đầy bờ cõi,
Thủy bộ cùng thẳng ruổi Thăng-Long.
Bốn bề đen kịt quân Mông,
Ải-quan tan vỡ, bể Đông sóng cồn.
Trên chín bệ xuất bôn tị nạn,
Dưới muôn dân ta thán xót xa.
Trong cơn nguy biến sơn hà,
Đại-Vương chí cả, gan già trơ trơ.
Lập thế trận mưu cơ huyền diệu,
Sắp binh thuyền định liệu trước sau,
Bạch-Đằng mở trận giáo đầu,
Xương phơi trắng đất, máu ngầu đỏ sông.
Hơn năm vạn quân Mông bị giết,
Phá chiến thuyền nghìn chiếc tan tành.
Mã-Nhi, Phàn-Tiếp nộp mình,
Phạm-Nhan chịu tội cực hình phanh thây.
Uy Đại-Vương trùm mây, chuyển đất,
Ngọn cờ vàng hồ phất giặc tan.
Thoát-Hoan nghe báo kinh hoàng,
Trồng chừng ải Bắc liệu đường rút quân.
Binh Đại-Vương như vân như vũ,
Ải Nội-Bàng bao phủ trùng trùng.
Loa vang cờ phất trống rong,
Quân tràn tựa bể, giáo đông ngất rừng.
Doanh, trại đốt mịt-mùng khói lửa,
Tên đạn bay tua tủa nhường mưa.
Ngất trời sát khí mịt mờ,
Ba quân xung đột say sưa thỏa lòng.
Chém Lỗ-Xích tiên phong giữa trận,
Bắn Trương-Quân đoạt ấn Thoát-Hoan.
Địch quân bốn mặt vỡ tan,
Tiếng kèn lở đất tiếng vang long trời.
Kìa đồn ải tơi bời tan nát,
Nọ kiếm cung, giáo mác quăng đầy.
Khắp đồng quân địch phơi thây,
Máu trôi thành suối, xác dầy thành non.
Thôi Nguyên chúa chẳng còn hống hách,
Rày Đông-A bàn thạch thái sơn.
Hai phen chống vững trời Nam,
Đại-Vương công đức muôn vàn còn đây./-

     II.- HƯNG-ĐẠO-VƯƠNG HIỂN THÁNH :

Công cứu quốc cao dầy đã rõ,
Ơn chúng-sinh tế-độ còn dài.
Đại-Vương từ ngự thiên đài,
Ngọc-Hoàng giáng chỉ cứu người dương gian.
Ngôi Vạn-Kiếp bốn phương chầu lại,
Đức uy-linh bát hải lan ra.
Nam-Tào, Bắc-Đẩu hai tòa,
Hạ ban thiên tướng, hằng hà thiên binh.
Việc nội ngoại, ngũ đinh tuần thú,
Khắp thiên-đình, địa-phủ, dương-gian.                 Bên ngai tả, hữu hai ban,
Kiếm thần, cờ lệnh, ấn vàng trong tay.
Trên bệ ngọc tàn mây năm sắc,
Trước long đình hổ phục, rồng chầu.
Thần thông biến hóa phép mầu,
Nghìn tai, nghìn mắt đâu đâu tỏ tường.                                Đạo-đức cao bốn phương bái phục,
Phép uy-linh, quỷ khốc thần kinh.
Triệt dịch-lệ, giải đao-binh,
Phò nguy, cứu khổ, tà tinh tiễu trừ.
Suốt Nam, Bắc phụng thờ thành kính,
Cả muôn dân cửa Thánh đội ân.
Tâm thành cầu khẩn phép thần,
Phút đâu hiển ứng mười phân vẹn mười.
Nơi nước Nhược ngự chơi ngày tháng,
Chốn non Bồng thăng giáng hôm mai.
Trần gian bao cửa đền đài,
Đằng vân, giá vũ khắp nơi đi về.
Từ sơn-cước, suối, khe, rừng, nội,
Đến phồn hoa, cát bụi chẳng nề.
Một tay che chở, phù trì,
Công ơn tế-thế sánh bì trời cao./-

Sưu tầm : Thiện Duyên.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét