phat-thich-ca

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

ÔNG GIÁM SÁT VĂN

ÔNG GIÁM SÁT VĂN.

Thông minh chính trực, giúp nước phù đời
Quyền ông cai, khắp hết mọi nơi
Vâng ngọc chỉ, giáng lâm Nam Việt
Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân
Sắc gia ban : Thượng Đẳng Tôn Thần
Quyền giám sát, kiêm tri phủ viện
Nghe văn thỉnh luyện, giá ngự điện trung
Chữ "Sở cầu hữu cảm tất thông"
Hộ đệ tử đồng gia phú quý
Nén hương dâng :
Đức Vua Cha chính ngự ngai vàng
Thỉnh quan giám sát, các quan Thủy tề
Thượng Ngàn tám cõi đồng qui
Bao nhiêu điện cũng về tay ông
Sòng Sơn cho chí phủ trung
Phủ Giầy, Vân Cát, quyền ông tiện hành
Khi qua tỉnh Nghệ tỉnh Thanh
Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Ninh
Tuyên, Cao, Thái, Lạng các thành
Cao Bằng Bảo Lạc cảnh Thanh chơi bời
Tống Tề Lương Việt mọi nơi
Trải mười tám nước, vào chơi Nam thành
Quang Bình Quảng Trị các doanh
Thừa Thiên Thuận Hóa, chơi thành Quảng Nam
Biên Hòa Bình Thuận dạo sang
Khánh Yên Quang Ngãi, ông sang chơi bời
Gia Định Bình Định thảnh thơi
Thủy Xá Hỏa Xá cùng nơi Xiêm thành
Khắp hòa các tỉnh nức danh
Quyền cai khắp hết Sơn tinh Thủy Tề
Sơn lâm cầm thú hồi quy
Bây giờ ông xuống Giang Khê chơi bời
Thủy binh chọn lấy năm mươi
Thuyền rồng năm chiếc ra chơi Bắc Hà
Hải môn mấy cửa Quốc gia
Khi vào Quang Trị khi ra Vụng trò
Trên thời đá mọc lô xô
Dưới thì kình ngạc nhấp nhô chầu vào
Truyền cho đội giáo đội đao
Đội khiên đội mộc, binh đao sẵn sàng
Đức ông chính ngự ngai vàng
Kiêm tri tam giới, Ngọc Hoàng sắc phong
Lệnh truyền giở mũi thuyền rồng
Chỉ ra Hà Tĩnh, các sông hay là
Cửa Cờn thờ Đức Chầu Bà
Truyền quân đóng lại, xướng ca ba ngày
Quyền cai khắp hết Đông Tây
Hồi sinh cải tử, ai rày dám đương ?
Ngự thôi ông xuống hạ sơn
Đền thờ tứ phủ, các quan hội đồng
Ngoài thì sư tử ngư ông
Tam đầu cửu vĩ, dưới sông khấu đầu
Truyền cho thủy bộ các dinh
Đều cùng trở mũi cho tàu ông ra
Thuồng luồng cho đến ba ba
Thủy tề các xứ bước ra chơi bời
Hàn môn Trạch khẩu thảnh thơi
Lệnh truyền bắt đủ năm mơi thanh đồng
Vào chầu tam vị thánh cung

Truyền sai các bộ bắt đồng cho mau
Ngự xong ông trở mũi tàu
Dưới sông trên chợ đâu đâu vui mừng
Xuôi buồm thuận gió thung dung
Cờ bay phấp phới, súng bằng pháo ran
Có khi chơi chốn dương gian
Ra đến quốc tế, bốn phương khẩn cầu
Cửa Sung cửa Bích đâu đâu
Phủ Đào cảnh cũ, về chầu Chúa Tiên
Dạo hòa non nước khắp miền
Phủ Giầy Thiên Bản, ông lên Vụng Điền
Ghé qua thăm tỉnh Hưng Yên
Qua sông Tô Lịch, rẽ lên sông Trừng
Ba nghìn thế giới lâng lâng
Kiêm tri khắp hết, trên rừng dưới sông
Sắc phong Giám Sát Quận công
Lịch triều năm đạo sắc rồng gia ban
Có khi thăm cảnh Hương san
Vân Nam Bắc quốc luôn sang Miến Lào
Thăm rồi ông lại quay vào
Sòng Sơn Ba-Dội Mẫu trao quyền hành
Thượng Ngàn non nước trong xanh
Các cô thể nữ nức danh vui chào
Có khi sang thăm nước Lào
Ghé xuống kẻ chợ đường nào cũng thông
Bây giờ ông ra ngự đồng
Dương gian nhẫn nhục ai không biết gì
Bệnh thì khi tỉnh khi mê
Cơm ăn chẳng được, nước thì cầm hơi
Thuốc thời chẳng được uống trôi
Phép ông uy trời, khôn đổi được đâu
Bây giờ ông lại về chầu
Sắc ban Giám sát đứng đầu bách quan
Khắp hòa tứ phủ vạn linh
Phép ông hùng cường, vạn mã thiên binh
Truyền cho các đội các dinh
Vào tâu ra dụng, triều đình ai đang
Khi lên chầu Vua Ngọc Hoàng
Nam Tào Bắc Đẩu các quan cũng nhường
Rồi ông lại xuống Diêm Vương
Hội đồng Thập điện rõ ràng phân minh
Con Vua Thượng Đế Thiên Đình
Cầm cân sinh tử, quyền hành một tay
Có khi cầm sổ cao dày
Quyền ông giám sát, sai nay giữ mình
Có phen phó hội thiên đình
Kiêm tri khắp hết Thủy tinh Thượng ngàn
Về đến chức chưởng Thành hoàng
Kiêm tri các bộ tiên nàng dưới trên
Phép ông lục trí thần thông
Xuất thần nhập thánh khắp miền trần gian
Tà ma thấy bổng chạy tan
Khu trừ Càn Thát, Phạm Nhan đẳng tà
Mười ba cửa bể gần xa
Ngàn xanh ta, cỡ bày ra một mình
Có phen lên thác xuống ghềnh
Tám muôn công tử, một mình tay ông
Vốn xưa ở nước Việt Đông
Nam thành đã trải, Bắc cung đã từng
Giáng sinh vào cửa Đại Vương
Thiên văn địa lý, đã nhường ngôi cao
Võ ông ví với đức Quan
Văn ông so với Mạnh Nhan thay là
Giáng sinh mồng một tháng ba
Trung thiên chính ngọ, được giờ xuất thân
Xuân huyên mừng rỡ muôn phần
Sinh ra là đấng trung thần trượng phu
Giáng sinh vào cửa họ Chu
Tinh trung bất nhị, cơ đồ nên trai
Sắc phong Thượng Đẳng Linh Thần
Xuống nước Nam Việt, quản cai bách thần
Xin ông mở rộng lòng nhân
Phù hộ đệ tử, thiên xuân thọ trường./-

Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.




ĐỆ NHẤT NỘI CUNG VĂN

ĐỆ NHẤT NỘI CUNG VĂN

Đệ tử tôi phần hương vọng bái
Tiến văn chầu Bà Đệ Nhất nội cung
Thường thường vui thú gió trăng
Lỡ sa chén ngọc xuống trần làm dân
Đêm khuya nhớ bóng chị Hằng
Cảnh tiên vui thú tưởng chừng cung nga
Rồng vàng châu lụy nhỏ sa
Mười lăm năm khổ hạnh xót xa nỗi đời
Đêm ngày cầu khấn Phật Trời
Thoát nơi trần tục trở về tiên cung
Hào quang sấm dậy đùng đùng
Lệnh truyền văn võ cung thần vào tâu
Vua cha phán hỏi đuôi đầu
Cung tiên Đệ Nhất ở đâu phân tường
Bá quan bạch tấu kim chương
Vua cha nhũ bảo mới tường trước sau
Động lòng xiết nỗi thảm sầu
Dạy con xuống chốn là nơi xuống trần
Làm dân đền tội lỗi lầm
Nguyện vương phụ gia ân hộ trì
Phụ hoàng đức đại từ bi
Lệnh truyền văn võ cung phi vào chầu
Vua cha phán trước rồng chầu
Quận nương đã trả nợ nần mười lăm năm
Rõ ràng tiên cảnh hồng ân
Bá quan văn võ một lần ra đi
Nguyện xin đức đại từ bi
Phật Bà Nam Hải một khi cứu đời
Thanh đồng lồng lộng lưng trời
Hồ lô ngai lưới thánh Bà về tiên
Đã phỉ nguyền đền xong tội lỗi
Bà vào đền tâu lại phụ vương
Bấy lâu cách trở đôi phương
Dương gia tiên cảnh xót xa đêm ngày
Quận vương cũng tấu đêm ngày
Mười lăm năm dương thế xót xa nỗi lòng
Phụ hoàng động mối từ tâm
Mừng nay con trẻ thoát vòng gian nan
Tiếng hò vang cung nga thị nữ
Đến reo mừng quận chúa về tiên
Quan quân hết nỗi than phiền
Quận vương nay đã lên tiên chầu trời
Vua cha phán hỏi đôi lời
Quận vương ý muốn vào nơi cung đền
Quỳ tâu văn võ đôi bên
Vua cha xuống chiếu bà về nội cung
Án gia phong bà nội cung Đệ Nhất
Hiệu phong bà Đệ Nhất Đào Nguyên
Theo hầu tiên nữ đôi bên
Lệnh sai bà phải Đèo Ngang theo hầu
Cô Ba hầu quạt hầu hèo
Cô tư hầu niệm hai ngai ra vào
Cô ba chầu chực vườn đào
Khi bẻ hoa hái quả đem về tiến dâng
Khi vui chơi nam bắc cung Tần
Thần thông biến hóa bao lần cứu dân
Oai danh tiếng nổi xa gần
Linh phù linh phép cứu dân trừ tà
Ai biết ra đêm ngày khấn nguyện
Thiên hạ cầu muôn chuyện xiết bao
Bà sai đội binh đội đạo
Binh Mường binh Mọi binh Lào binh Xiêm
Lệnh truyền tả hữu đôi bên
Hộ trì đệ tử thiên niên thọ trường./-

Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.




Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

HỘI ĐỒNG VĂN

HỘI ĐỒNG VĂN

Cảnh u minh lòng thành mới cảm
Người trần gian ai dám tâu qua
Nam mô Đức Phật Di Đà
Từ bi chiếm chiếm ngự tòa kim liên
Nén hương thơm khấu đầu vọng bái
Rủ lòng nhơn phước đẳng hà sa
Nam mô Đức Phật Thích Ca
Tháng tư mồng tám xuất gia đạo truyền
Tu chín kiếp tâm truyền lục trú
Phép thần thông cứu thế độ dân
Thay quyền nảy mực cầm cân
Đã nên tích đức tu nhân muôn đời
Niệm nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Cảnh vân sơn gió mát trăng thanh
Đạo Mẫu chế độ quần sanh
Một phen bối diệp một cành dương chi
Trước khấu đầu cộng đồng tam phủ
Trên ngai vàng lồ lộ oai nghi
Việc trong dương thế hào li chẳng lầm
Kẻ gian dâm cùng người phước thiện
Quyển bìa xanh chép để tầng trên
Năm Ông Hoàng Tử Thượng Thiên
Mười Ông Thủy Tể chầu lên tam tòa
Đức Thánh Bà sắc phong huê hiệu
Đệ nhất cung Hòa Diệu Đại Vương
Anh linh hiển hách là dường
Phủ thờ trong chốn Đèo Ngang lạnh lùng
Đệ nhị cung Xích Lân tiên nữ
Giá duyên lành vào cửa Kinh Xuyên
Hay đâu duyên chẳng bằng nguyên
Chịu oan một tiếng danh truyền ngàn thu
Vua Ngọc Hoàng ban cho trần thế
Đệ tam cung Thánh Quế ba nương
Phủ Giầy Thiên Bổn quê hương
Họ Trần dấu khí thiên hương ngát ngào
Hội thiên tào các ngôi công chúa
Dưới hai hàng văn võ khâm sai
Hoặc truyền cứu bệnh trừ tai
Lâm khi hỏa tốc gia tài oai linh
Trên Đế-đình tiên cang bát bộ
Dưới thủy tề Hà Bá bách quan
Sơn lâm Đức Chúa Thượng Ngàn
Danh tuy bé nhỏ phép càng oai linh
Hiệp ban tiên rừng nho cảnh quế
Mãi vui chơi nước trí non nhơn
Mười hai thiên tử theo chơn
Năm Ông Hổ tướng sơn thần oai linh
Lời khấn nguyền linh thông tam giới
Hương ngát ngào thấu đến cửu thiên
Diện tiền phụng hiến hương diên
Nguyện xin chư vị tọa thiền chứng minh
Độ cho lòng thành tâm sở nguyện
Độ cho đồng nực tiếng thơm danh
Dáng phù, dáng phép, dáng linh
Phép linh tỏa bóng độ sinh cho đồng
Hay đâu tiên cũng dáng phàm
Bởi lòng cảm ứng lấy làm thần thông
Chẳng ngỡ rằng không không sắc sắc
Người trần gian tối mắt không hay
Dầu ai báng bổ đêm ngày
Làm cho họa gió tai bay đến mình
Thuở xưa sách còn ghi chuyện
Dẫu Đèo Ngang Phố Cát mấy phen
Mở ra vua chúa đều khen
Danh thơm cõi Việt dầu truyền Sùng Sơn
Mở quyển vàng mà xem tích cũ
Đạo thánh thần cũng có chẳng không
Tàn hương giấy trắng nước trong
Thánh tiên có độ cho đồng mới hay
Thánh rèm nhơn lúc gió lay
Cũng là thanh khí xưa nay việc thường
Đệ tử tôi đèn hương khuya sớm
Dạ đinh ninh một tấm lòng tin
Nương nhờ bóng dáng hồn tiên
Nỗi danh phép đạo có quyền anh linh
Hương một tuần thung dung rũ áo
Dưới bá quan độc đạo trùng dương
Một nguyền nước trị nhà an
Hai nguyền nổi dấu ý quan muôn đời
Ba nguyền chơi đối xuân cõi thọ
Bốn nguyền đòi quốc phú dân an
Năm nguyền đạo pháp tăng long
Sáu nguyền thánh chưa ban công lộc nhiều
Bảy nguyền nhựt Thuấn thiên Nghiêu
Tám nguyền già trẻ thọ yên thiên thần
Chín nguyền tuổi hạc long đong
Các nhà đệ tử trường sanh thanh đồng
Mười nguyền vạn sự hanh thông
Dân an phật phú vinh phong muôn đời
Nén hương thơm trời cao lồng lộng
Cửa pháp môn đạo thống nguy nga
Hội đồng trong cảnh cao xa
Dàn văn tiên cúng tâu qua thánh thần
Văn chầu thánh giáng lưu ân
Đồng chư đệ tử thiên xuân thọ trường./-


Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.








Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

MỪNG PHẬT ĐẢN

Lời nhạc :Mừng đản sinh Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
  

Như có Phật Ngài trong ngày vui Phật đản.
Lời Phật nay đã thành ánh sáng soi đời.
Bao nhiêu năm ẩn tu thề tận diệt vô minh.
Bao nhiêu năm độ đời nguyện cứu khổ quần sanh.
Phật ơi ! Ngài ở đâu ?
Nơi tâm ! nơi tâm !
Phật ơi ! Ngài ở đâu ?
Nơi tâm ! nơi tâm !




Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

VĂN CHẦU SỰ TÍCH THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU

VĂN CHẦU SỰ TÍCH THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU.

Ngàn thu nước biếc non xanh
Dựng cờ nhà thánh hiển linh nhà thần
Xưa nay hai chữ tôn thần
Lọt ra lòng mẹ trước cần đạo con
Thánh xưa ơn nghĩa vuông tròn
Trời Nam bể Bắc tiếng còn như vang
Gác lê (1) lần gió quyển vàng
Quốc văn âm diễn mấy hàng chép ghi
Cõi Nam nhờ Đức Thiên Y
Dấu thiêng thủơ trước truyền bia rành rành
Phẩm tiên vốn ở Thiên-đình
Đại An núi chúa giáng sinh lạ lùng
Giang sơn riêng ruột tiều ông (2)
Ở ăn gốc núi vun trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái có thừa
Vì ai ngứt trái hái hoa không còn (3)
Tiều ông đêm lén rình coi
Hình như bóng nguyệt bời bời áng mây (4)
Người đâu bỗng thấy chốn này (5)
Phẩm đành bậc nhất trực tày ngoài mươi
Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều ông gần hỏi chớ người nào đây
Con ai trạc tuổi thơ ngây
Nam mô Di Phật con thầy thầy nuôi
Tấm lòng yêu dấu chẳng phai (6)
Trẻ già cậy lại lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào (7)
Lòng tiên phút nhớ động bào thuở xưa
Dời hoa xây đá sớm trưa
Non kia cảnh nọ dày sưa mấy tầng
Tiều ông ngó thấy chẳng ưng
Nỗi cơn la dận tưng bừng một khi
Tiên còn đang nghĩ can qua
Bỗng đâu nước lụt cội Kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc thuyền qua
Cho người tiên cỡi đặng qua giữa vời
Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể bắc gần nơi thiên thành
Tiếng thơm dồn dậy xung quanh
Gần xa điệu đến phụng nghinh thỉnh về
Trơ như đá nặng như chì
Gần xa xúm kéo trì trì chẳng lay
Thảy đến ngơ mắt khoanh tay
Nghĩ trong gỗ ấy chẳng hay có thần
Đến tai Thái tử phong vân (8)
Dạo quanh xem thử nguyên nhân thế nào (9)
Xuống xe vừa đỡ gỗ vào
Cội Kỳ bật nổi cớ sao nhẹ dường (10)
Người phi thường bửu phi thường
Trời kia đã định dễ nhường cho ai
Rước về đặt chốn cát đài
Khi hôm trăng dọi khi mai gió dồn
Xuân xanh tuổi tác đương thì (11)
Cầu Ô (12) còn đợi sông Ngân (13) bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng dáp dớn bóng mây chập chờn
Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giật hèo (14)
Hương thừa thấp thoáng còn nghe
Trong khi gặp gỡ ai dè sắc không
Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy trên cung ra vào
Mười phần cốt cách phong bào
Mừng thay gặp bạn động đào thiên thai
Đã lòng đoài đến cát đài
Nhơn duyên đâu tỏ giải bày thử nghe
Bây giờ mới rõ niềm tây
Rừng dưa biển quế vui vầy bấy lâu (15)
Cung xanh (16) rõ chuyện trước sau
Vừa mừng vừa sợ vào tâu thềm rồng
Vừa nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền bói thử cắt trong dường nào
Khi nên trời cũng khéo chìu
Bói ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho sắm lễ chọn ngày
Bắc cầu Ô Thước duyên vầy phụng loan
Sắt cầm réo rắt thiên đình (17)
Trước sân mừng thấy Quế Lan sánh tày
Song song gái sắc trai tài
Xuân xanh chớm nở một cây đôi cành
Dẫu rằng hà nghĩa xuân xanh
Quê xưa cảnh cũ chút tình còn vương
Lạ thay tiên tích như thường (18)
Trong lòng nhân quả lánh đường phiền ba
Cội Kỳ sẵn có ở nhà
Đem hai tiên nữ hóa ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt quản bao
Bể nam một dãy cù lao mấy trùng
Nước non non nước một vùng
Đại An đâu đó xa trông mịt mờ
Cù Huân thoát đã đến bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi làng làng gọi Đại An
Hỏi tiều tiều đã úa tàn bầy lâu
Vườn dưa man mác đâu đây
Tưởng lòng ơn nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương mây hỡi còn nên
Cảm tình tiều lão cất đền thờ chung
Phàm dân buổi ấy đều đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa tiên lại động lòng thương
Dạy cho xanh lý bảo dường lễ nghi
Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hộ trì đặng yên
Đoạn rồi tiên lại về tiên
Lên non tạc tượng để miền dương gian
Phút đâu giá hạc xe loan
Ban ngày giữa buổi băng ngàn lên mây
Cõi nam cảm mến đã dày
Mưa tuôn bể bắc sầu này không nguôi
Từ khi trâm gãy bình rơi
Cung xanh luống tưởng tâm rơi ả Hằng (19)
Nhớ lời thỏ thẻ dưới trăng
Quân chèo giục giã để chừng vượt sông (20)
Quân kia nóng nảy bàng hoàng (21)
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kêu đến tượng bà
Từ bi cho mấy cũng là khó dung
Nỗi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho thuyền nọ chìm trong một giờ
Giữa dòng cốt đã khôn vân
Dấu thiên còn đó oai thần còn đây
Khi đỉnh núi khi chân mây
Khi lên voi cỡi khi thời cá bơi
Núi Cù hòn Yến dạo chơi
Sấm vang ba tiếng bóng người nữa không
Anh linh hiển hách lạ lùng
Gió tiên mưa phật cảm thông rất mầu
Phàm trần mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga
Giữa xây một tháp thờ bà
Kìa bên hữu dựng một tòa thờ ông
Đôi bên bốn tháp đồng đồng
Thờ cô thờ cậu thờ ông mụ tiều
Trước thời bia đá còn niêm
Chữ xưa khéo dấn khôi đền dại suy
Bia kỳ mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì đừng
Trông lên sáu tháp lừng lừng (22)
Năm hòn lố nhố như dăng trước tòa
Kia hòn Én nọ hòn Gà
Hòn lớn hòn bé với là hòn bông
Tả biên có mũi cày sung
Hữu biên có mũi núi ông chầu vào
Ngày đêm sóng vỗ lao xao
Đờn ve quyển gió thanh tao bốn mùa
Có viễn kiều có phụng hồ
Có lầu ngũ nhật (23) có hồ bát tiên (24)
Thường năm tứ quý tam nguyên
Hương thơm đèn sáng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàng quạt rõ ràng
Kim đồng ngọc nữ hai hàng hầu trông
Nào tên nào cỏ nào cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca
Tôn thần cũng chẳng người ta
Thượng cầm hạ thú cũng là đua nhau
Cọp voi đều cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước chim chầu trên non
Ngàn năm linh hiển vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn đời
Sử xanh chói chói ngàn đời
Giúp công dẹp giặc ra tài làm mưa
Bá quan hay nhớ đã lâu (25)
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh
Có khi ngài đã hiển hình
Có khi thăm hỏi hiển linh phép mầu
Khắp trung nam bắc đâu đâu
Việc gì mà đã khẩn cầu cũng nên
Thần kinh phong cảnh thiên nhiên
Về làng Huê Cát có đền Huệ Nam
Quốc sử mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa lần
Đền tam núi chúa thủy cung (26)
Ngát ngào hương khói ngàn thu đền thờ
Hàm Long điện tối linh từ
Cảnh này in cảnh tiên cư lạ thường
Nhìn ra trước mặt sông Hương
Tựa vào Hòn Chén lại càng thanh cao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ cù lao thị thành
Đêm khuya gió mát trăng thanh
Thông reo chim hót dưới ghềnh lễ ca (27)
Vực sâu trạnh lớn nổi ra
Ấy thần Quy đó hay là cá chăng
E khi chầu chực thiên đình (28)
Đem đồ Thủy phủ lên mừng cõi tiên
Vừa năm Đồng Khánh kỷ nguyên
Sắc rồng ban xuống xây đền sửa cung
Rõ thấy Ngọc Trản kỳ phong
Thật là huyền diệu vinh phong muôn đời
Non cao ra thẳng giữa vời
Hình nhu sư tử uống nơi sông Hà
Nhành dương rưới khắp muôn nhà
Mây tuôn làm phụng mưa sa làm rồng
Cứu dân độ thế đủ lòng
Tùy dân hộ quốc để công muôn đời
Ba tầng minh cảnh cao đài
Rõ ràng biển ngọc trăng ngời lang đương
Hoài du đức thấm muôn phương
Thần linh hiển ứng lạ thường đến nay
Thần tiên đức sánh cao dày (29)
Phước tày Đông hải thọ tày Nam sơn.

Chú thích :
(1) Gác lê : chỉ nơi tra cứu, biên soạn sách. (tương truyền sao Thái Ất chống gậy Thanh Lê hiện xuống gác Thiên Lộc, nơi Lưu Hướng thường hiệu đính chỉnh lý sách cổ).
(2) Dị bản : Giang sơn riêng một tiều ông.
(3) Dị bản : Ví ai ngứt trái sưa bông còi.
(4) Dị bản : Nhỡn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây.
(5) Dị bản : Người đâu bỗng xuống chốn này.
(6) Dị bản : Tấm lòng yêu dấu chẳng phai.
(7) Dị bản : Bỗng đâu gặp tiết mưa rào.
(8) Dị bản : Đến tai Thái tử nghe tin.
(9) Dị bản : Dạo quanh xem thử nguyên duyên thế nào.
(10) Dị bản : Cội Kỳ bật nổi cớ sao nhẹ nhàng. (Cội Kỳ : gốc Kỳ Nam).
(11) Dị bản : Xuân xanh tuổi tác đương xuân.
(12) Cầu Ô (còn gọi là Cầu Ô Thước) : Theo thần thoại Trung quốc. Chim Quạ (Ô) và chim Khách (Thước) khuâng đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau vào ngày mùng bảy tháng bảy âm lịch hàng năm (ngày thất tịch).
(13) Sông Ngân (còn gọi là sông Ngân Hà) : dải Ngân Hà với truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ.
(14) Dị bản : Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe.
(15) Dị bản : Rừng dưa biển quế đi về bấy lâu.
(16) Cung xanh : cung của Thái tử.
(17) Dị bản : Sắt cầm dìu dặc tiếng đàn.
(18) Dị bản : Lạ thay tiên vốn khác thường.
(19) Dị bản : Cung xanh luống tưởng tâm hơi Nga Hằng.
(20) Dị bản : Quân thuyền giục giã để chừng vượt sang.
(21) Dị bản : Quân kia nóng nảy vội vàng.
(22) Dị bản : Trông lên sáu tháp rưng rưng.
(23) Dị bản : Có núi Ngũ Nhạc có hồ Bát tiên.
(24) Dị bản : Quá quan này nhớ thuở xưa.
(25) Dị bản : Tiên chúa miếu thủy thần.
(26) Dị bản : Thông reo chim hót hòa vần song ca.
(27) Dị bản : E khi chầu chực không chừng.
(28) Dị bản : Thánh nhân đức sánh cao dày.


Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt-Nam.








VĂN CHẦU THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU TRUYỆN CA

VĂN CHẦU THIÊN-Y-A-NA THÁNH MẪU TRUYỆN CA.


(Bản văn này nói về Thánh Mẫu Thiên-Y-A-Na được thờ ở Miền Trung).

Nghìn thu nước biếc non xanh
Tục truyền có thánh hiển linh hạ trần
Thánh xưa hai chữ tôn thân
Lọt ra lòng mẹ trước cần tạo con
Thánh xưa ân nghĩa vuông tròn
Trời nam biển bắc tiếng còn như vang
Các lê lần giở quyển vàng
Quốc âm kể lại mấy hàng chép ghi
Cõi Nam có Đức Thiên Y A Na
Dấu thiêng thủa trước truyện kia rành rành
Phẩm Tiên vốn ở Thiên-đình
Đại-An núi Chúa giáng sinh lạ lùng
Giang sơn riêng một Tiều Ông
Ở ăn góc núi vun trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái có thừa
Vì ai ngắt hái trái dưa bỗng còi
Tiều Ông đêm lượm rình coi
Nhởn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây
Người đâu bỗng xuống trốn này
Phẩm dành bậc nhất tác tày ngoài mươi
Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều Ông gần hỏi : chứ người nào đây
Con ai tác hãy thơ ngây
"Nam mô Di Phật" - Con thầy thầy nuôi
Tấm lòng yêu dấu chẳng nguôi
Trẻ qua già cậy lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào
Lòng Tiên phút nhớ động đào ngày xưa
Đình hoa xây đá sớm trưa
Non kia cảnh nọ dây dưa mấy trùng
Tiều Ông ngó thấy chẳng ưng
Nổi cơn la giận tưng bừng một khi
Tiều còn đương nghĩ đương suy
Bỗng đâu nước lụt cội kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc tiên xà
Cho người tiên cưỡi qua ra vời
Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể Bắc gần nơi Yên Thành
Tiếng thơm đồn dậy xung quanh
Xa gần đưa tới phụng nghinh đem về
Trơ như đá nặng như chì
Trăm quân xúm kéo từ từ chẳng lay
Thảy đều ngơ mặt khoanh tay
Ở trong vật ấy chẳng hay có thần
Một mai thái tử nghe tin
Dạo qua xem thử nhân duyên thế nào
Xuống xe liền néo tay vào
Cột kỳ cất nổi cớ sao lạ thường
Người phu thường, bửu phi thường
Duyên kia đã định dễ nhượng cho ai
Rước về đặt chốn các đài
Khi hôm trăng rọi khi mai gió nhuần
Cung xanh tuổi tác đương xuân
Cầu Ô còn đợi mây Ngân bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng dấp giới làn mây dập dờn
Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe
Hương thừa thấp thoáng còn nghe
Đương khi gặp gỡ ai dè sắc không
Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy Tiên Dung ra vào
Mười phần cốt cách thanh cao
May thay gặp bạn động vào Thiên thai
Đã lòng đoái tới cơ đài
Nhân duyên đâu tá giãi bày thử nghe
Bây giờ nước tỏ niềm tê
Rừng xanh ngỏ truyện trước sau
Hòa mừng hòa sợ vào tâu thềm rồng
Trên nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền xét xử cát hung dường nào
Khi nên trời cũng khéo chiều
Tìm ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho làm lễ chọn ngày
Cầu xây Ô Thước duyên vầy phượng loan
Sắt cầm dìu dặt tiếng đàn
Trước sân mừng thấy quế lan sánh bầy
Song song gái quế trai tài
Xuân xanh sớm nở một cây đôi nhành
Dẫu rằng gá nghĩa cung xanh
Quê xưa cảnh cũ ơn tình còn vương
Lạ gì tiên tích dị thường
Xa đường nhơn quả lánh đường phiền hoa
Cội kỳ sẵn có bởi nhà
Đem hai tiên tử biến ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt biết bao
Biển xanh một dãi Cù Lao mấy trùng
Nước non xanh biếc một vùng
Đại An đâu đó xa trông mịt mờ
Cù Huân thoắt đã tời bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi làng làng gốc Đại An
Hỏi Tiều Tiều đã úa tàn bấy lâu
Rừng dưa man mác đâu đâu
Chạnh lòng ân nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương may hãy còn nên
Cảm lòng Tiều Lão cất đền thờ chung
Phương dân buổi ấy người đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa Tiên lại mở lòng thương
Dạy phương sinh lý tìm đường lễ nghi
Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hô trì dành yên
Đoạn rồi Tiên lại về Tiên
Lên non tạc tượng để miền nhân gian
Phút đâu giá hạc xe loan
Giữa ban ngày đã băng ngàn lên mây
Cõi Nam cảm mến đức dày
Mây tuôn nước chảy sầu này khôn nguôi
Từ ngày trâm gãy bình rơi
Khuôn dung vắng hẳn tăm hơi ả Hằng
Nhớ lời tỏ vẻ dưới trăng
Cung thuyền dục đã đê chừng vượt sang
Quân kia nóng nảy bàng hoàng
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kiêng đến tượng Bà
Từ bi cho mấy cũng là khó dung
Nổi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho họ đắm xong một lần
Giữa dòng cột đá khôn vần
Dấu thiêng còn đó uy thần còn đây
Khi đỉnh núi khi trên mây
Khi lên voi cưỡi khi dầy cá bơi
Hòn Cù, Hòn Én dạo chơi

Sấm ran ba tiếng bóng ngời giữa không
Oai linh hiển hách lạ lùng
Gió tiên mây phật cảm thông rất mầu
Phương dân mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga
Giữa xây một tháp thờ Bà
Kế bên hữu dựng một tòa thờ Ông
Hai bên bốn tháp công đồng
Thờ Cô thờ Cậu thờ Ông Mụ Tiều
Giữa dòng bia đá còn nêu
Dấu xưa khoa đẩu khôn điều giải uy
Bia đá mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì dừng
Hai bên bốn tháp lừng lừng
Năm hòn lố nhố như giăng trước tòa
Kìa Hòn Én nọ Hòn Gà
Hòn Lớn, Hòn Bé với là Hòn Bông
Tả biên có mũi cây Sung
Hữu biên có núi mũi Ông chầu vào
Đêm ngày sóng vỗ lao xao
Đàn ve quyến gió thanh tao tứ mùa
Có Viên Kiệu có Phượng Hồ
Có lèn Ngũ Nhạc có đồ Bát Tiên
Thường năm Tứ quý Tam nguyên
Hương thơm đèn rạng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàn quạt rỡ ràng
Kim Đồng Ngọc Nữ hai hàng hầu trong
Này tên này nỏ này cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca
Tôn thần chẳng những người ta
Thượng cần hạ thú cũng là đua nhau
Cọp hùm đâu cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước voi chầu trên non
Nghìn thu di sản vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn dài
Sử sanh chói chói khôn sai
Giúp vua dẹp giặc, ra tài làm mưa
Qua quan này nhớ thuở xưa
Sứ thần Chân Lạp phải đưa mình hầu
Diễn sơn này nhớ thuở dâu
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh
Có khi Đèo Cả  hiện hình
Có khi Tầm hới Hiển linh hạ mầu
Khắp trong dân chúng đâu đâu
Giúp người chẳng quản khấu cầu tự nhiên
Thần Kinh phong cảnh thiên nhiên
Gần làng Cát Hải có đền Huệ Nam
Quốc sơ mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa dần
Đền Thiên Chúa, Miếu Thủy Thần
Ngạt ngào hương khói ngàn xuân đến giờ
Hàm long điện tả linh tòa
Cảnh nào in cảnh tiên cư lạ dường
Nhìn ra trước mặt sông Hương
Dựa vào Hòn Chén lại càng thanh tao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ, cù lao tam thần
Núi xanh nước biếc mười phần
Thông reo chim hót họa vần sinh ca
Vực sâu trạnh lớn nỗi ra
Ơ thần linh đó ấy Hà Bá chăng
E khi chầu chực khôn lường
Đem đồ thủy phủ lên mừng cõi tiên
                        *
                  *          *

Nghìn thu non nước thiên nhiên
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, lưu truyền sử xanh./-


Sưu tầm : Thiện Duyên.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt-Nam.


Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

BÀI HỊCH KÊU GỌI KHỞI NGHĨA CỦA BÀ TRƯNG TRẮC.



SỐNG VỮNG CHÃI 4000 NĂM SỪNG SỮNG
LƯNG ĐEO GƯƠM TAY MỀM MẠI BÚT HOA


            . BÀI HỊCH KÊU GỌI KHỞI NGHĨA CỦA  TRƯNG TRẮC

  .“Kẻ đại gian ác từ lâu vốn lòng độc địa. Người  đức  nhân thường vẫn nuôi chí tiễu trừ. Mảnh hịch tre ruổi ngựa từ đêm, ba quân chấn động .
   .Nước ta dựng nền thực từ thuở Vua Hùng vỗ trị, khi ấy Quan Dân vui vẻ, mọi người êm ấm nhàn hạ, mưa thuận gió hòa, một thân lúa thẩy đều hai bông. Đời đời nối tiếp, ngàn thu lưu truyền.
   .Đến đời An Dương Vương, qua đời Triệu  Đế, chẳng may đức suy, gặp phải tai ách. Bọn Hi Tải, Chu Chương, Ngụy Lang thay nhau làm quận thú. .
   .Đám Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục nối tiếp làm châu mục. Dẫu tham lam, liêm khiết không giống nhau, nhưng chưa từng  kẻ nào bạo ngược,  khắc quá lắm.
   .Tới nay yêu nghiệt họ  tham tàn ngang ngược, giết hại sinh linh, coi sừng tê, ngà voi làm quý. Khinh miệt hiền tài, lấy giống chó loài ngựa làm trọng. Khai mỏ vàng, khiến dân rét thấu xương, mặt vàng, da nứt.  ngọc châu, để người lặn vực thẳm,  ngọc trong mồm rồng ngậm, trăm kẻ đi, một người về.
   .Thuế  nặng nề phải nghiêng bồ vét bịch.   Hình pháp phiền phức liên lụy từng nhà, từng xóm. Dân không sống được yên, vật phải dời chỗ ở!
   .Ta vốn dòng dõi hoàng tộc, con cháu Hùng tướng,  nghĩa trừ hại.
   .Bọn các ngươi đều  trí khôn, lại cùng tiên tổ, thù nước phải báo.
  .Hãy kề vai sát cánh  giương cây cung mạnh, quét sạch bọn ngoại bang, lấy hết nước sông Thiên   rửa binh khí.  nghiệp hùng  do đó mà được tái tạo, nhân dân ly tán được yên vui.
  .Bảo vệ  tắc, gối đầu trên giáo mác, chính  lúc này đây.
   .Hãy lập công danh để ghi vào sử sách, như thế chẳng tốt đẹp hay sao?
  .Thảng hoặc kẻ nào còn hồ nghi, do dự thì xem hịch này sẽ được sáng tỏ.
Các ngươi cần phải cố gắng lên !”

( Theo Thiên Nam vân lục ).
 ( Nguồn Dựng nước - Giữ nước )






Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO TỪ QUẺ SỐ 11 ĐẾN QUẺ SỐ 15


                   LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                             QUẺ SỐ  11  -  THƯỢNG QUÁI

TRIỆU :              Tháo đao chế cẩm.

Dịch :                   Cầm kéo cắt gấm.

TỔNG THI :      Bách trĩ thành cao cấp độ châm,
                             Cao san lưu thủy hữu tri âm,
                             Phùng thời an đụng luân cân pháp,
                             Khuê hạng quân thần lợi đoạn câm.

Dịch :                   Trăm trĩ thành cao cách mấy tầm,
                             Tình cờ duyên gặp khách tri âm,
                             Gặp thời lọ mượn mưu Gia-Cát,
                             Tôi, Chúa thành công tại nhất tâm.

CHÚ GIẢI :
1.TỰ THÂN GIA TRẠCH  : Hồng tập trung thạch.
          Ý nói : Thân thế và gia đình đều yên vui.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Cơ nguyệt nhi khả.
          Ý nói : Cầu quan cầu tài rất tốt và rất mau lẹ.

3. HÔN NHÂN                               : Xuất ngôn hữu chương.
          Ý nói : Việc hôn nhân nói ra là đẹp tai hợp ý được mọi người thương.

4. LỤC GIÁP                                 : Tái lộng chi chương.
          Ý nói : Điềm sinh con trai.

5. PHONG THỦY                         : Vô cữu vô dự.
          Ý nói : Mộ được bình yên.

6. QUAN TỤNG                            : Lợi hữu du vãng.
          Ý nói : Kiện tụng có cơ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Đại nhân báo biến.
          Ý nói : Bệnh mỗi ngày một nhẹ đi.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Tái kiến vu Chu.
          Ý nói : Người đi tất về, vật mất tất thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Tam niên hữu thành.
          Ý nói : Việc chăn nuôi và làm ruộng cũng có kết quả tốt, nhưng phải đợi lâu mới thành công.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

          Quẻ này ứng triệu “Cầm kéo cắt gấm” là triệu rất tốt. Tuy nhiên chính tay mình phải may cắt thì áo mới thành; như thế là mình đã tạo lấy đồ trang sức cho mình. Vậy ai rút được quẻ này, về mưu vọng nên nửa trông vào mình, nửa trông vào bạn tri âm (quý nhân), hai đằng hợp một mới mong hoàn toàn, cho nên trong thơ tổng đoán có câu “Tôi Chúa thành công tại nhất tâm”.
         
Đây là quẻ phải nên luôn luôn đồng tâm hợp lực thì kết quả mới tốt./-












LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                 QUẺ SỐ  12   -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Họa xà thiêm túc.

Dịch :                            Vẽ rắn thêm chân.

TỔNG THI :                Ngư trảo hồ minh vị túc luân,
                                      Toàn bằng tạo hóa định ngô chân,
                                      Thỉnh khan tiêu sắt thu dung đạm,
                                      Thùy thị đăng cao kế hứng tần.

Dịch :                            Cá quẫy hồ kêu chẳng kể mà,
                                      Toàn nhờ tạo hóa định cho ta,
                                      Kìa xem heo hắt màn thu nhạt,
                                      Ai kẻ lên cao hứng đậm đà ?

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Lệ khí chí quai.
          Ý nói : Tự thân gia trạch có lắm chuyện rắc rối xay ra không yên.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI              : Huyễn ngọc cầu thụ. (mang ngọc bán rao). Ý nói : Có tài nhưng đời không đếm xỉa đến, giống như ngọc phải bán rao.

3. HÔN NHÂN                               : Phúc thủy nan thu. (Nước đổ khó vét lại cho đầy). Ý nói : Hôn nhân có sự xích mích rồi đi đến tan vỡ.

4. LỤC GIÁP                                 : Nữ dã dương nam. (Gái cũng bằng trai). Ý nói : Lục giáp sinh con gái.


5. PHONG THỦY                         : Chu vô định đà.
          Ý nói : Mộ để sang hướng chẳng phát kết gì; lại có mộ lâu ngày lạc nấm, mộ đắp một nơi, hài cốt chôn một nẻo.

6. QUAN TỤNG                            : Dĩ tốc ngã ngục.
          Ý nói : Việc quan tụng không khéo bị giữ.

7. TẬT BỆNH                                : Úy thiên chi uy . (Rất sợ uy trời).
          Ý nói : Căn cứ vào sự có hay không có đức mà định việc sống chết.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Bất kiến kỳ chi.
          Ý nói : Người đi xa vẫn còn đi, của mất đương chuyển từ người này đến người khác.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Mỗi thực vô dư.
          Ý nói : Việc chăn nuôi và cày cấy, hễ không lỗ vốn là may lắm rồi.


TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

Quẻ này ứng triệu “Vẽ rắn thêm chân” nên việc gì cũng bị rắc rối sinh ra lắm chuyện mà kết cục toàn là hão cả. Vậy ai rút được quẻ này, mọi việc đều theo định mệnh là hơn, đừng bới vẽ ra làm gì chỉ nhọc công tốn sức mà thôi.
Thời vận : Tháng 4 là tháng Tỵ . Tỵ là rắn, vậy nên lưu ý đề phòng e có sự buồn xảy ra ứng câu “Tiêu sắt thu dung đạm” ; các tháng 7, 8, 9 cũng thế./-








                   LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                                  QUẺ SỐ  13  -  ĐẠI CÁT

TRIỆU :                       Tích cốc phòng cơ.

Dịch :                            Trữ thóc phòng đói.

TỔNG THI :                Nhất thể nhân long khởi dị thường,
                                      Mão kim thiên tử khởi Mang-Dương,
                                      Hà ưu tam quốc phân tranh đỉnh,
                                      Ca vũ môn đình chỉ nhật vương.

Dịch :                            Rồng giữa nhân gian há khác thường,
                                      Lưu Bang đột khởi tự Mang-Dương,
                                      Lo gì tam quốc phân tranh đỉnh,
                                      Ca vũ nơi này hẹn nghiệp vương.

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Lai chương hữu khách.
          Ý nói : Thân thế gia đình được hưởng phúc lành, có nhiều điềm tốt đem lại.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Gia huyền hộ sắt. (Nhà nhà đàn hát). Ý nói : Cầu quan đắc quan, cầu tài đắc tài, đến đâu cũng được mọi người vui vẻ giúp đỡ.

3. HÔN NHÂN                               : Như cổ sắt cầm. (Như gẩy đàn sắt đàn cầm). Ý nói : Việc hôn nhân vui vẻ như hòa tiếng đàn cầm đàn sắt.

4. LỤC GIÁP                                 : Duy hùng duy bi.
          Ý nói : Sinh con trai.


5. PHONG THỦY                         : Nhân khí ngã thủ. (Người bỏ ta lấy).
          Ý nói : Ngôi đất tốt nhờ có âm-công dày nên trời để dành cho.

6. QUAN TỤNG                            : Thuận đức giả xương. (Ở điều nhân đức thì hưng thịnh). Ý nói : Vì ở phải lẽ nên việc quan tụng sẽ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Xưng bỉ tỷ quanh.
          Ý nói : Bệnh nên cữ rượu sẽ khỏi.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Mạnh kiến Huệ Vương. (Thầy Mạnh yết kiến vua Huệ). Ý nói : Người đi xa được gặp, của mất lại tìm thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Văn vương vô ưu.
          Ý nói : Việc chăn nuôi, việc trồng cấy đều tiến triển đều đều, không có gì lo ngại.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
          Quẻ này ứng triệu “Trữ thóc phòng đói” là điều nên dự trữ lo xa. Ai rút được quẻ này mọi việc đều vững vàng chắc chắn, khác nào như vua Hán Cao Tổ thưở hàn vi còn ẩn mình ở núi Mang-Dương mà cái khí thế đã lộ ra sau này làm nên sự nghiệp vương trong thiên hạ. Tuy nhiên, dù có báo trước sự thành công, nhưng quẻ ứng triệu “Trữ thóc phòng đói” nên khi thành công rồi vẫn phải giữ mực cần kiệm, siêng năng mới tốt.
          Thời vận : Tháng 2, 7, 8 , 9 ứng chữ Mão Kim trong tổng thơ rất tốt, có việc sinh cơ lập nghiệp và nên danh phận./-









                   LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                     QUẺ SỐ  14  -  TRUNG BÌNH

TRIỆU :                       Lạo tận đàm thanh.

Dịch :                            Lọc hết, nước đầm lại trong.

TỔNG THI :                Loan hoàng giao dã cửu trình tường,
                                      Vạn quốc hy du hóa nhật trường,
                                      Mạc đạo tích niên xuân vị ổn,
                                      Thái canh sơ phạn tống hành trang.

Dịch :                            Rõ ràng loan phượng báo điềm hay,
                                      Muôn nước ưu du thỏa tháng ngày,
                                      Chớ nhắc năm xưa thời lận đận,
                                      Ra đời : áo vải với canh đay.

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Khổ tận cam lai. (Đắng hết nước ngọt), Ý nói : Thân thế và gia đình qua cơn cay đắng đến lúc thời vận dễ chịu trở lại.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Lao khiêm quân tử. (Người quân tử vất vả khiêm nhường). Ý nói : Việc cầu quan cầu tài cũng có kết quả, nhưng phải giữ đức lao cần và khiêm nhường luôn luôn.

3. HÔN NHÂN                               : Nhan như thuấn hoa.
          Ý nói : Lấy được người đẹp. (gái có sắc, trai có tài).

4. LỤC GIÁP                                 : Khô mộc sinh chi. (Cây khô mọc cành). Ý nói : Tuy muộn nhưng thế nào cũng sinh con tốt.


5. PHONG THỦY                         : Vô binh bất bi.
          Ý nói : Mộ phần yên ổn.

6. QUAN TỤNG                            : Như ngư hữu thủy. (Như cá gặp nước). Ý nói : Nhờ vào lý phải, lại được quan minh xét, nên việc kiện sẽ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Thái tân chi ưu.
          Ý nói : Có ốm đau soàng nhưng không đáng lo ngại.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Vô vãng bất phục. (Chẳng có gì đi mà không trở lại). Ý nói : Người đi xa sẽ về, của mất lại thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Đắc xích thủ xích.
          Ý nói : Việc chăn nuôi, việc trồng cấy có làm có ăn, không suy xuyển chút nào.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

          Quẻ này ứng triệu “Lọc hết, nước đầm trở về trong trẻo như xưa” có nghĩa là qua cơn bĩ cực đến tuần thái lai, qua bước gập gềnh đến đoạn bằng phẳng, đúng như câu tổng thi “Muôn nước ưu du thỏa tháng ngày”.

          Tuy nhiên, đường lối sống trong lúc này là phải êm ả dịu dàng, đừng nòng nảy cáu kỉnh, vì trong triệu có câu “hết đục đến trong” nghĩa là nhờ có sự yên tĩnh làm cho bùn nhơ lắng xuống, nước đầm trở nên trong. Nay nếu nóng nảy, khác nào lấy que mà khuấy lên thì nước còn trong thế nào được./-








                   LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                                 QUẺ SỐ  15  -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Tế vũ phi hoa.

Dịch :                            Mưa nhẹ mà vẫn làm rụng hoa.

TỔNG THI :                Yến tước vô thanh điếu mộ xuân,
                                      Linh nhân trường đoạn khấp hồng trần,
                                      Vấn cừ giải đắc thanh tiêu mộng ?
                                      Hoàng-lạc lâu tiền đôi bạch vân !

Dịch :                            Âm thầm chiếc én khóc xuân tàn,
                                      Sui khách hồng trần đứt ruột gan,
                                      Thử hỏi mộng đời ai giải được ?
                                      Kìa lầu Hoàng-lạc áng mây tan !

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Ưu tâm tiêu tiêu. (Lòng lo ngay ngáy). Ý nói : Thân thế và gia đình có sự lo nghĩ, không yên vui.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Uấn vu quần tiểu. (Giận vì lũ tiểu nhân). Ý nói : Việc cầu quan cầu tài bị tiểu nhân gièm pha bực mình, không thể tiến được.

3. HÔN NHÂN                               : Diệc bất nữ tòng.
          Ý nói : Việc hôn nhân không xong, vì gia đình cô gái phản đối.

4. LỤC GIÁP                                 : Chu dĩ Bao Tự.
          Ý nói : Con cái hiếm hoi, cần sửa lại hành dộng phản đạo đức của người vợ, họa may mới có sự sinh đẻ.


5. PHONG THỦY                         : Tàng đầu lộ vĩ. (Kín đầu hở chân).
          Ý nói : Đất ở mộ bị lở, lộ cả áo quan (hòm).

6. QUAN TỤNG                            : Cữu nhị bất khắc.
          Ý nói : Việc kiện khó thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Nhân nhi vô ưu.
          Ý nói : Nên bớt lo nghĩ, cho tinh thần thư sảng.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Chiêu Quân xuất tái. (Nàng Chiêu Quân ra khỏi cửa quan). Ý nói : Người đi xa không về, của mất không tìm thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Thất như huyền khánh. (Nhà như khánh treo). Ý nói : Kho bỏ rỗng tuếch, chuồng heo chuồng bò trống trơn, công việc thảy đều thất bại.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
          Quẻ này ứng triệu “mưa nhẹ rụng hoa” có nghĩa là các việc sui đem đến từ từ, tuy chẳng kịch liệt cho lắm mà rốt cuộc gia đạo ngày một suy dần. Ai rút được quẻ này phải nên lưu ý tu tỉnh tâm tính, cùng sửa lại hành động để cứu vãn dần dần họa may mới thoát khỏi vận hạn hiểm nghèo. Đồng thời cũng phải cố nén lòng chịu đựng đừng oán trời, trách người chi cả. Khi nào vận bĩ qua, vận thái khắc trở lại khác nào như cơn mưa (làm rụng hoa) đã tạnh, thì bầu trời phải trở lại quang quẻ, lúc đó tha hồ mà hóng gió mát, ngắm trăng trong.
Thời vận về ba tháng xuân (Giêng, 2, 3) không tốt vì ứng chữ “tế vũ phi hoa” nhất là tháng 3, nên đề phòng hơn, vì có chữ “điếu mộ xuân”. Sang mùa thu thời vận khá hơn./-